Tin chuyên môn |#ffcc00

Tin chuyên môn |#ffcc00 (302)

Bài viết vui gây 'bão' của BS tuyến đầu chống dịch: Virus thì rất nham hiểm, hệ miễn dịch lại như cô người yêu phức tạp, loằng ngoằng!

BSCK II Nguyễn Trung Cấp | 12/08/2020 07:04

 

 

Virus gây bệnh COVID-19 có vẻ có những cơ chế trốn tránh miễn dịch và ức chế sinh interferol. Do đó chúng có thể nhân lên âm thầm mà không được hệ thống miễn dịch bẩm sinh phát hiện.

 

Hệ thống miễn dịch là gì?

 

Hệ thống miễn dịch vốn dĩ phức tạp và rất loằng ngoằng. Chúng gồm một mạng lưới các tế bào và phân tử phức tạp và tương tác lằng ngoằng giúp bảo vệ chúng ta khỏi các mầm bệnh nguy hiểm. Những thành phần này triệu hồi, khuếch đại, khuấy động, kiểm soát và biến đổi lẫn nhau. Giống như hình ảnh hàng nghìn cỗ máy, một số đang hung hăng đập phá mọi thứ. Một số khác đang cố kiểm soát và biến đổi chúng.

Và các thành phần này được dán các loại nhãn: CD8 +, IL-1β, IFN-γ, TNFα… Miễn dịch học gây nhầm lẫn ngay cả với các giáo sư sinh học nếu không chuyên về miễn dịch học. Và đó cũng là những thứ mà các thánh thực dưỡng hay đội ngũ Anti-vacine không bao giờ hiểu được.

Khi các nhà miễn dịch học sử dụng từ miễn nhiễm, nó chỉ đơn giản nghĩa là hệ thống miễn dịch đã có phản ứng với mầm bệnh - ví dụ, bằng cách sản xuất kháng thể hoặc tập hợp các tế bào phòng thủ. Nhưng khi mọi người sử dụng thuật ngữ này, họ cho rằng (và hy vọng) nghĩa là họ được bảo vệ khỏi nhiễm trùng – tức là họ được miễn dịch.

Nhưng, thật khó chịu, một phản ứng miễn nhiễm không nhất thiết cung cấp khả năng miễn dịch chắc chắn. Tất cả phụ thuộc vào hiệu quả, số lượng và độ bền của các kháng thể và tế bào miễn dịch đó.

Do đó, miễn dịch là một câu chuyện về mức độ, không phải là hiệu quả tuyệt đối. Và nó là trọng tâm của nhiều câu hỏi lớn nhất trong đại dịch COVID-19. Tại sao một số người bị bệnh nặng và những người khác thì không? Những người bị nhiễm COVID-19 có bị mắc lại không? Đại dịch sẽ diễn biến như thế nào trong những tháng và năm tới? Tiêm phòng có hiệu quả không?

Để trả lời những câu hỏi này, trước tiên chúng ta phải hiểu cách hệ thống miễn dịch phản ứng với virus SARS-COV-2. Nhưng thật không may, hệ thống miễn dịch lại quá phức tạp và rất loằng ngoằng.

 


Nó hoạt động, đại khái cũng giống như một bộ máy chiến tranh!

 

Ta hãy tưởng tượng, khi có kẻ địch xâm nhập, đội ngũ dân quân, bộ đội địa phương phản công đầu tiên, bất kể kẻ địch ấy của nước nào, thuộc binh chủng nào. Đồng thời đội thông tin liên lạc sẽ mang quân kỳ, phù hiệu thu được của kẻ địch gửi về ban Tham mưu.

Ban Tham mưu kiểm tra các thông tin nhận được, xác định kẻ thù, gọi đội cựu binh, giàu kinh nghiệm của các cuộc đụng độ trước với kẻ thù đó để đào tạo ra một đội quân đặc biệt, phù hợp với kẻ địch để tung ra chiến trường. Nếu chiến thắng trở về, đội quân này sẽ được giải ngũ, bom mìn được tháo gỡ, nhưng vẫn giữ lại một số binh sĩ để tuần tra, và một vài sĩ quan cốt cán ở Bộ tham mưu để lưu giữ kinh nghiệm cho lần sau.

Có 3 giai đoạn của phản ứng miễn dịch: Phát hiện kẻ thù, tổng động viên lực lượng chiến đấu, và thu quân trở về.

Giai đoạn phát hiện kẻ thù bắt đầu ngay sau khi virus xâm nhập vào đường hô hấp và tấn công các tế bào lót đường hô hấp của chúng ta. Khi những tế bào này cảm nhận được các phân tử của mầm bệnh khác lạ với con người, chúng tạo ra các protein gọi là cytokine, có vai trò giống như tín hiệu báo động, triệu tập và kích hoạt một đội bạch cầu đa dạng đi đến nơi đó để ngăn chặn virus xâm nhập.

Những bạch cầu này ăn thịt chúng, bắn phá chúng bằng các hóa chất hủy diệt và giải phóng thêm nhiều cytokine khác. Có loại cytokine dựng hàng rào ngăn chặn trực tiếp vi rút sinh sôi (gọi là interferon), có loại khởi phát quá trình viêm, có loại có vai trò là tín hiệu thông tin khác. Cuộc xung đột này dẫn đến phản ứng viêm: sưng, nóng, đỏ, đau.

Quá trình này diễn ra nhanh chóng trong vòng vài phút sau khi virus xâm nhập. Nó hoạt động chung theo cùng một cách ở tất cả mọi người (và kể cả hầu hết các loài động vật) nên gọi là hệ thống miễn dịch bẩm sinh.

Hệ thống này tấn công bất cứ thứ gì có vẻ khác lạ và nguy hiểm với con người, mà không cần quan tâm đến mầm bệnh đó cụ thể là loại nào. Nó nhanh chóng nhưng thiếu chính xác. Và nó chuẩn bị cho giai đoạn thứ hai của phản ứng miễn dịch: Phản ứng miễn dịch thu được.

Trong lúc Hệ miễn dịch bẩm sinh đang chiến đấu với mầm bệnh, đội liên lạc - các tế bào truyền tin lấy các mảnh vi rút nhỏ và mang chúng đến các hạch bạch huyết, nơi các tế bào bạch cầu chuyên biệt cao - Tế bào T để nhận dạng.

 

BSCK II Nguyễn Trung Cấp

Tế bào T là những người bảo vệ có chọn lọc và được lập trình trước. Mỗi loại được thiết kế khác nhau một chút, và sẵn sàng tấn công chỉ một vài trong số hàng triệu mầm bệnh có thể tồn tại. Đối với bất kỳ loại virus mới nào, bạn có thể có một tế bào T ở đâu đó về mặt lý thuyết có thể chống lại nó.

Cơ thể bạn chỉ cần tìm và huy động tế bào đó. Hãy hình dung các hạch bạch huyết như ban tham mưu chứa đầy sĩ quan tế bào T kỳ cựu tóc hoa râm. Mỗi người chỉ có kinh nghiệm với một loại kẻ thù. Tế bào truyền tin mang về vài mảnh quân phục quân kỳ của kẻ địch, lần lượt trình các sĩ quản và hỏi: Đây có phải đối thủ của thủ trưởng không?

Khi một đối thủ được tìm thấy, những sĩ quan có liên quan sẽ vũ trang và nhân bản chính nó thành một đội quân để ra trận

Một số tế bào T-Killer là đặc công, làm nổ tung các tế bào đang là doanh trại cho vi rút ẩn náu sinh sôi. Những tế bào T-Help trợ giúp cho tế bào B sản sinh ra kháng thể, giống như những quả mìn đặc hiệu quét sạch các vi-rút đang trôi nổi bên ngoài tế bào.

Những hoạt động này là miễn dịch thích ứng. Quá trình nhận dạng, kẻ thù, kích hoạt đội quân miễn dịch phù hợp có thể mất vài ngày nhưng tạo ra sự đáp ứng mạnh mẽ và chính xác hơn nhiều so với miễn dịch bẩm sinh.

Sau khi vi rút bị tiêu diệt, dưới sự chỉ đạo của tế bào T điều hòa, hầu hết các lực lượng tế bào T và tế bào B đang hoạt động sẽ hưu binh, già cỗi và chết đi. Nhưng một phần nhỏ các cựu binh kỳ cựu vẫn được lưu giữ ở các mô hoặc lưu thông tuần tra dòng máu của chúng ta.

Nếu kẻ thù xâm nhập lần sau, những "tế bào nhớ" này sẽ kích hoạt, khởi động nhánh miễn dịch thích ứng đáp ứng nhanh chóng khiến các mầm bệnh có thể bị tiêu diệt sạch mà chưa kịp gây bệnh.

Trên đây mô tả hoạt động chung của hệ thống miễn dịch đối với các mầm bệnh. Hiểu được quá trình đáp ứng miễn dịch với virus SARS-CoV-2 sẽ giúp ta phòng và điều trị bệnh nhân Covid 19 hiệu quả hơn. Nhưng vấn đề là…. hệ thống miễn dịch lại quá phức tạp và rất loằng ngoằng.

 

SARS-COV-2 là loại virus khá "nham hiểm"

 

 

Có vẻ chúng có những cơ chế trốn tránh miễn dịch và ức chế sinh interferol. Do đó chúng có thể nhân lên âm thầm mà không được hệ thống miễn dịch bẩm sinh phát hiện.

Đa số các bệnh nhân có thời gian ủ bệnh khoảng 3-6 ngày, nhưng cá biệt có những bệnh nhân có thể ủ bệnh khá dài. Do hệ miễn dịch bẩm sinh đáp ứng kém, phản ứng viêm xảy ra rất yếu ở một số bệnh nhân nên có một tỷ lệ không nhỏ các bệnh nhân không có triệu chứng nhưng có virus vẫn nhân lên và phát tán mạnh mẽ tạo ra những nguồn lây nguy hiểm trong cộng đồng.

Khi hệ miễn dịch bẩm sinh chậm phát hiện mầm bệnh thì hệ miễn dịch thu được cũng bị khởi động muộn. Ngay cả khi được khởi động, ở một số bệnh nhân cũng có tính trạng ức chế các tế bào T dẫn đến sự lan tỏa của virus gây tổn thương nhiều cơ quan đích khác như phổi, thận, não, gan... Và do tế bào T-hepl hoạt động hạn chế nên các tế bào B sinh kháng thể kém hiệu quả.

Nhiều nghiên cứu cho thấy ngay cả ở những người đã khỏi bệnh, vẫn có khoảng trên dưới 20% bệnh nhân có nồng độ kháng thể lưu hành rất thấp.

 

Hình ảnh virus, tế bào,miễn dịch

Ngược lại, cũng có khi hệ miễn dịch phản ứng qua mức và không phù hợp.

Thông thường trong tất cả các phản ứng miễn dịch, việc thông tin, tương tác giữa những loại tế bào trên thông qua một nhóm chất tên là cytokine, bao gồm khoảng 150 loại chất khác nhau, có vai trò giống như những mệnh lệnh liên lạc.

Chúng có thể là tin cầu cứu, tin triệu tập huy động, thông tin điều động dẫn đường, thông tin ngăn cản ức chế. Nếu có một mệnh lệnh hành quân thì bộ binh, không quân hay lực lượng tàu ngầm sẽ thực hiện với những cách thức rất khác nhau; tương tự vậy, với 1 loại cytokine cũng sẽ gây đáp ứng rất khác nhau với mỗi loại tế bào đích riêng biệt.

Trong trạng thái virus tấn công nhiều vị trí, có quá nhiều chiến trường và mệnh lệnh cytokine khác nhau, hệ miễn dịch bị "bối rối", không phân biệt được địch và ta. Rối loạn những thông tin cầu viện, những mệnh lệnh chỉ huy, dẫn đường,vv… dẫn đến những đáp ứng rối loạn. Giống như một trận pháo kích hay ném bom rải thảm không chính xác trong chiến tranh, đáp ứng miễn dịch thái quá mang tính tàn phá.

Các tế bào bị hủy hoại, các hóa chất độc hại được giải phóng và đáp ứng miễn dịch quá mức dẫn đến tổn hại không chỉ tế bảo mang virus mà cả các tế bào lành. Tình trạng rối loạn các tín hiệu miễn dịch đó được gọi là "Bão cytokine".

Người ta cho rằng tình trạng bão cytokine gây ra hầu hết những ca tử vong do COVID-19, và ở trẻ em, hệ miễn dịch "trẻ" hơn, ít lú lẫn hơn nên khi nhiễm Covid-19, chúng diễn biến nhẹ hơn. Nhưng thực tế có đúng là vậy không thì cũng chưa ai khẳng định được, bởi vì hệ miễn dịch thực sự quá phức tạp và rất lằng ngoằng.

Một trong những câu hỏi lớn là: Nếu sau bị nhiễm Covid -19, chúng ta có bị mắc lại hay không. Sau khi khỏi bệnh do virus nào đó, tế bào T sẽ "nhớ" thông tin về virus đó. Các tế bào T cựu binh này 1 phần rút về các hạch lympho, một phần vẫn tiết ra các mệnh lệnh cytokine để chỉ huy tế bào B sản xuất kháng thể theo dòng máu đi tuần tra để phát hiện và tiêu diệt virus đó nếu chúng xâm nhập lần sau.

Nhưng chúng ta đã biết, SARS-COV-2 rất là quỷ quyệt. Chúng thường xuyên biến đổi, thay đổi lớp áo ngụy trang, gây ức chế miễn dịch. Người ta nhận thấy rằng có một tỷ lệ không nhỏ bệnh nhân mắc Covid-19 sau khi khỏi bệnh trong máu hầu như không có kháng thể.

Một số bệnh nhân có lượng kháng thể cao nhưng chỉ sau vài tháng lượng kháng thể sụt giảm nhanh chóng. Điều này làm nản lòng những ai đặt quá nhiều hy vọng vào vắc xin phòng bệnh COVID-19.

Tuy nhiên, nếu sau mắc bệnh hoặc tiêm vắc xin, chúng ta tạo ra được các tế bào T, B lão luyện, nhớ dai và sống thọ, thì nếu nhiễm virus SARS-COV-2 sau đó, các tế bào này được hoạt hóa sinh sôi nhanh chóng thành đội quân thiện chiến, kích thích sinh kháng thể ồ ạt thì có thể giúp chúng ta không mắc bệnh hay chi ít là mắc bệnh không nặng thì chúng ta vẫn còn hy vọng về một loại vắc xin hiệu lực.

Kháng thể lưu hành trong máu không phải là tất cả.

Chúng ta có thể đo lường được lượng kháng thể trong máu của một người sau mắc COVID-19 hay sau tiêm vắc xin tồn tại bao nhiêu và bao lâu, nhưng không thể định lượng được có bao nhiêu tế bào B hay T nhớ tồn tại, và chúng "nhớ" được bao lâu. Miễn dịch quả là phức tạp và cơ chế rất loằng ngoằng.

Hệ thống đó có thể rất phức tạp, nhưng nó cũng vừa hiệu quả vừa có khả năng phục hồi theo cách mà chính chúng ta có thể rút ra bài học. Nó chuẩn bị trước, và học hỏi từ quá khứ của nó. Nó có nhiều phương thức đáp ứng để phòng khi một phương thức phòng thủ nào không thành công.

Nó hoạt động nhanh, nhưng cũng tự kiểm soát để ngăn chặn các phản ứng quá mức. Bất chấp vô số các mầm bệnh liên tục tấn công, hầu hết chúng ta đều dành phần lớn thời gian trong đời không bị bệnh.

Miễn dịch cũng giống cô người yêu của chàng sinh viên Y, quá phức tạp và rất loằng ngoằng. Nhưng chắc hẳn là… tuyệt vời.

 

(Viết dựa theo một số ý trong bài viết của ED Yong trên The Atlantis)

 

Nguồn tin: https://soha.vn/bai-viet-vui-gay-bao-cua-bs-tuyen-dau-chong-dich-virus-thi-rat-nham-hiem-he-mien-dich-lai-nhu-co-nguoi-yeu-rat-phuc-tap-va-loang-ngoang-20200811204035325.htm

 

Việt Nam nên làm gì với làn sóng thứ 2 của dịch COVID-19?

TTO - Bí thư Thành ủy TP.HCM Nguyễn Thiện Nhân vừa có bài nhận định và đánh giá về dịch COVID-19 trên thế giới: Các nước đang bước vào làn sóng COVID-19 lần thứ 2 và bài học cho Việt Nam. Mời bạn đọc xem toàn văn bài viết.

 

Bí thư Thành ủy TP.HCM Nguyễn Thiện Nhân - Ảnh: TỰ TRUNG

I. Dịch COVID-19 đang gia tăng lây nhiễm mạnh trên toàn cầu, ở các châu lục với mức độ và các giai đoạn khác nhau.

Dịch COVID-19 diễn ra từ tháng 1-2020 tại Trung Quốc, đến nay đã lan ra 213 nước, với quy mô và tốc độ chưa từng có. Ngày 10-1-2020 có người chết đầu tiên vì COVID-19 tại Vũ Hán, ngày 2-4-2020 có 204 nước bị nhiễm COVID-19, 1 triệu người bị nhiễm và 53,1 nghìn người chết.

Ba tháng sau, ngày 3-7-2020 tức là sau 6 tháng có dịch, số người bị nhiễm COVID-19 là 11 triệu người và số người chết là 532,8 nghìn người. Dự báo ngày 11-8-2020 sẽ có hơn 20 triệu người nhiễm COVID-19 trên thế giới (hình 1).

 

Virus Corona chủng mới (gọi là SARS-CoV-2) đã phải cần đến 92 ngày để lây lan đến 1 triệu người nhiễm đầu tiên trên toàn thế giới, song chỉ cần 13 ngày là lây thêm 1 triệu người và bây giờ chỉ cần 4 ngày là có thêm 1 triệu người nhiễm COVID-19 trên thế giới.

Châu Mỹ với 53 nước, khoảng 1.014 triệu dân, là lục địa có số lượng người nhiễm COVID-19 mạnh nhất thế giới, với 10.612.762 người nhiễm, 388.022 người chết và 3.875.705 người đang điều trị ở các bệnh viện.

Đến nay, sau 200 ngày COVID-19 lây nhiễm ở châu Mỹ, số người nhiễm và người đang điều trị tiếp tục tăng, chưa biết khi nào mới giảm (hình 2). Cứ 1 triệu dân thì có hơn 10.000 người nhiễm, 3.800 người đang điều trị ở bệnh viện và gần 400 người chết.

 

Châu Âu với 49 nước và 831 triệu dân, có số người nhiễm bằng 1/3 châu Mỹ, với 3.246.696 người nhiễm, 211.426 người chết và 491.216 người đang điều trị ở bệnh viện, song mức độ lây nhiễm đã chậm lại. Số người đang điều trị ở các bệnh viện sau khi đạt đỉnh vào ngày 15-5-2020, sau đó giảm dần, nhưng khá chậm (hình 3).

 

Gần đây, việc lây nhiễm có chiều hướng tăng trở lại. Số người đang điều trị ở các bệnh viện tăng lên và cứ 1 triệu dân thì có hơn 3.900 người nhiễm, gần 600 người đang điều trị và 260 người chết.

Châu Á với 48 nước, 4.490 triệu dân, có số người nhiễm cao hơn châu Âu và xu hướng lây nhiễm vẫn tiếp tục tăng mạnh, tương tự ở châu Mỹ, với 4.624.742 người nhiễm, 100.876 người chết và 1.083.137 người đang điều trị ở các bệnh viện (hình 4).

 

Cứ 1 triệu dân thì có hơn 1.000 người nhiễm, hơn 200 người đang điều trị và 22 người chết.

Châu Phi với 57 nước, 1.886 triệu dân, có quá trình lây nhiễm chậm hơn châu Á 25 ngày, mức độ lây nhiễm rất nhanh, với 1.025.464 người nhiễm, 22.553 người chết và 295.034 người đang điều trị (hình 5).

 

Cứ 1 triệu dân thì có 785 người nhiễm, 226 người đang điều trị và 17 người chết. Đáng lưu ý là dường như châu Phi đã đạt đỉnh dịch vào ngày 26-7-2020 với số người nhiễm đang điều trị là 338.154 người, sau đó giảm dần.

Châu Đại Dương chỉ với 6 nước và 40 triệu dân, là châu lục duy nhất việc lây nhiễm đã đạt đỉnh và qua làn sóng lây nhiễm thứ 1, giờ đang bắt đầu bước vào làn sóng thứ 2 (hình 6).

 

Khi làn sóng lây nhiễm thứ 1 đạt đỉnh, ngày 5-4-2020, tổng số người nhiễm là 6.571 người và số người đang điều trị là 5.826 người. Đến 15-6, số người đang được điều trị chỉ còn 381 người, thấp hơn ngưỡng an toàn dịch của châu Đại Dương là 402 người.

Tuy nhiên, do cuối tháng 6-2020, Úc nới lỏng kiểm soát, mở lại hoạt động kinh tế quá mức nên lây nhiễm lại tăng. Kết quả là từ đầu tháng 7-2020, châu Đại Dương bước vào làn sóng lây nhiễm COVID-19 thứ 2. Số người đang điều trị giờ đây là hơn 8.800 người, cao hơn 52% số người được điều trị khi làn sóng thứ 1 đạt đỉnh.

II. Một số nước và vùng lãnh thổ đang bước vào làn sóng lây nhiễm COVID-19 lần thứ 2

1. Nhật Bản

Dịch COVID-19 tại Nhật đã đạt đỉnh vào ngày 29-4-2020 với 11.443 người đang điều trị ở các bệnh viện (hình 7). Ngày 5-6-2020, số người đang điều trị còn 1.248 người, đạt ngưỡng an toàn dịch của Nhật là 1.264 người (ngày 21-6-2020 chỉ còn 770 người đang điều trị). Tức là sau 143 ngày, Nhật đã khống chế dịch thành công.

Tuy nhiên do mở cửa lại các hoạt động thương mại, sau đó 1 tháng, ngày 5-7-2020, Nhật đã bước vào làn sóng lây nhiễm COVID-19 thứ 2. Đến nay, sau hơn 1 tháng, số người đang điều trị là 12.629 người, gấp 1,1 lần đỉnh dịch lần 1 (11.443 người - hình 7) và chưa thể dự báo lúc nào làn sóng lây nhiễm thứ 2 sẽ đạt đỉnh dịch.

 

2. Hong Kong

Hong Kong đã đạt đỉnh dịch vào ngày 9-4-2020 với tổng cộng có 936 người nhiễm và 696 người đang điều trị ở các bệnh viện (hình 8). Ngày 10-5-2020, số người đang điều trị chỉ còn 74 người, dưới ngưỡng an toàn dịch là 75 người (ngày 21-5-2020 chỉ còn 26 người đang điều trị), Hong Kong đã đạt ngưỡng an toàn dịch sau 109 ngày.

Tuy nhiên, do nới lỏng kiểm soát và các hoạt động tụ tập đông người vẫn tiếp diễn, nên sau 44 ngày, số người đang điều trị lại tăng vượt ngưỡng an toàn dịch. Hong Kong bước vào làn sóng lây nhiễm COVID-19 lần thứ 2 (hình 8).

Ngày 2-8-2020 đã có 1.519 người đang điều trị ở các bệnh viện, gấp 2,2 lần số người điều trị khi đạt đỉnh dịch lần thứ 1 (696 người). Đến ngày 7-8-2020 đã có 3.939 người nhiễm, số người đang điều trị giảm còn 1.273 người, Hong Kong vừa qua đỉnh dịch lần thứ 2, chưa biết bao giờ sẽ trở lại trạng thái an toàn dịch (hình 8).

 

3. Úc

Úc đã đạt đỉnh dịch vào ngày 4-4-2020, với tổng số người nhiễm là 5.550 người, số người đang điều trị là 4.935 người (hình 9). Ngày 15-6-2020 chỉ còn 380 người đang điều trị, cao hơn một chút ngưỡng an toàn dịch của Úc là 252 người đang điều trị.

Tuy nhiên do từ giữa tháng 6-2020 Úc đã nới lỏng kiểm soát, mở cửa lại các hoạt động kinh tế khi chưa đạt ngưỡng an toàn dịch làm cho dịch bùng phát trở lại. Nước Úc bước vào làn sóng lây nhiễm COVID-19 lần 2 (hình 9).

Đến ngày 7-8-2020 đã có 8.686 người đang điều trị ở các bệnh viện, gấp 1,76 lần khi dịch đạt đỉnh lần thứ 1 (4.935 người). Chưa có dấu hiệu cho thấy khi nào thì dịch đạt đỉnh lần 2 và khi nào đạt mức an toàn dịch.

 

4. Israel

Israel đã đạt đỉnh dịch vào ngày 15-4-2020 với tổng số người nhiễm là 12.501 người, số người đang điều trị ở các bệnh viện là 9.808 người (hình 10). Ngày 28-5-2020 đã giảm còn 1.909 người đang điều trị, nhưng vẫn cao gấp 22,5 lần ngưỡng an toàn dịch (85 người).

Tuy nhiên, do Israel sớm nới lỏng kiểm soát từ cuối tháng 5-2020 nên sau đó dịch lại bùng phát. Ngày 27-7-2020, số người đang điều trị là 36.378 người, gấp 3,7 lần đỉnh dịch của làn sóng thứ 1 (9.808 người). Hiện nay, lây nhiễm của làn sóng thứ 2 đang giảm dần, song chưa biết bao giờ đạt ngưỡng an toàn dịch (hình 10).

 

5. Campuchia

Với dân số 16,7 triệu người, ngưỡng an toàn dịch của Campuchia là 167 người bị nhiễm đang được điều trị. Từ khi có người bị lây nhiễm đầu tiên (ngày 28-1-2020), lúc cao nhất Campuchia chỉ có 88 người bị nhiễm đang được điều trị (hình 11), sau đó giảm dần. Tức là Campuchia có làn sóng lây nhiễm lần thứ 1, đạt đỉnh ngày 26-3-2020, song chưa có dịch.

Một thời gian dài, từ 3-5-2020 đến 26-6-2020, số người đang điều trị không quá 3 người. Tuy nhiên, từ 27-6-2020, số người nhiễm mới tăng nhanh, đến ngày 25-7-2020 là 82 người đang điều trị, bằng 93% khi đạt đỉnh làn sóng lây nhiễm lần thứ 1 (88 người). Do đó, Campuchia đang bước vào làn sóng lây nhiễm lần thứ 2 và đã đạt đỉnh vào ngày 25-7-2020. Hiện nay số người đang điều trị còn 29 người (hình 11).

 

6. Việt Nam

Với dân số 96,5 triệu người, ngưỡng an toàn dịch của Việt Nam là 970 người đang điều trị ở các bệnh viện. Cũng như Campuchia, từ khi có người nhiễm COVID-19 đầu tiên (ngày 23-1-2020), lúc cao nhất Việt Nam chỉ có 178 người nhiễm đang được điều trị (hình 12), sau đó giảm dần.

Tức là Việt Nam có làn sóng lây nhiễm thứ 1, đạt đỉnh ngày 30-3-2020, song chưa có dịch. Ngày 18-6-2020, cả nước chỉ còn 10 người nhiễm đang được điều trị tại các bệnh viện. Tuy nhiên, sau hơn 1 tháng, từ ngày 22-7-2020 số ca nhiễm mới đã tăng mạnh, ngày 7-8-2020 đã có 384 người đang được điều trị, gấp 2,16 lần đỉnh lây nhiễm của làn sóng thứ 1 (178 người - hình 12).

Việt Nam đã bước vào làn sóng lây nhiễm thứ 2. Sau 190 ngày có lây nhiễm COVID-19 mà không có người nào chết, chỉ 6 ngày từ ngày 31-7 đến ngày 6-8-2020 đã có 10 người chết. Hiện nay chưa dự báo được khi nào thì làn sóng lây nhiễm COVID-19 lần thứ 2 ở Việt Nam đạt đỉnh.

Với tổng số người đã nhiễm đến ngày 7-8-2020 là 789 người (hình 12), ta thấy có khả năng khoảng từ ngày 15 đến 20-8-2020 sẽ có 1.000 người nhiễm và khoảng 500 người nhiễm đang điều trị ở các bệnh viện. Tức là tổng số người đang được điều trị có nguy cơ gấp gần 3 lần đỉnh lây nhiễm của làn sóng thứ 1 (ngày 30-3-2020: 178 người đang điều trị) và 10 người chết, chỉ trong 7 ngày. Làn sóng lây nhiễm COVID-19 lần thứ 2 ở Việt Nam có thể nghiêm trọng hơn lần thứ 1 rất nhiều (178 người nhiễm đang được điều trị, không có người chết - hình 12).

 

III. Một số bài học cho Việt Nam

1. Vì sao có làn sóng lây nhiễm COVID-19 thứ 2?

Từ thực tế xuất hiện làn sóng COVID-19 thứ 2 ở Nhật, Hong Kong, Úc và Israel, ta nhận thấy ở cuối làn sóng thứ 1, mặc dù số người đang điều trị đã giảm, song chưa đạt ngưỡng an toàn dịch của nước đó (dưới 10 người đang điều trị/1 triệu dân), các nước Úc, Israel đã nới lỏng kiểm soát (không đeo khẩu trang, tụ tập đông người), mở lại các hoạt động dịch vụ xã hội, làm lây nhiễm lại bùng phát. Người lây nhiễm là số người đã nhiễm đang sống trong đất nước.

Còn tại Nhật và Hong Kong, ở cuối làn sóng 1, mặc dù số người nhiễm còn ít, dưới mức an toàn dịch, song do nới lỏng kiểm soát dịch (không đeo khẩu trang), tụ tập đông người (mở cửa trường học, biểu tình), mở cửa các dịch vụ xã hội hoặc có thể do lây nhiễm từ người nước ngoài (quân đội Mỹ đóng quân ở Nhật Bản) mà lây nhiễm gia tăng, bùng phát thành dịch, làn sóng nhiễm thứ 2.

Việt Nam đã kiểm soát lây nhiễm trong cộng đồng rất tốt, do đã phát hiện kịp thời các ca nhiễm F0 từ nước ngoài về và F1 từ trong nước, cách ly triệt để tất cả các ca F0, F1, F2 nên cùng với các biện pháp khác như đeo khẩu trang, giãn cách xã hội, sát khuẩn, đã giữ cho số người lây nhiễm phải điều trị rất thấp, lúc cao nhất chỉ có 178 người, tức là 1,8 người/1 triệu dân, thấp xa ngưỡng an toàn là 10 người nhiễm đang được điều trị/1 triệu dân.

Trước ngày 20-7-2020, Việt Nam đã trải qua gần 100 ngày không có lây nhiễm trong cộng đồng, còn người từ nước ngoài về Việt Nam luôn được cách ly triệt để, an toàn dịch.

Vì vậy, việc từ ngày 22-7-2020 xuất hiện hàng loạt ca lây nhiễm tại Đà Nẵng và từ đó lan sang các địa phương khác có nghĩa là: F0 do đợt lây nhiễm ở Đà Nẵng phải là từ nước ngoài vào, qua việc nhập cảnh trái phép đường bộ.

Chỉ riêng tháng 7-2020, tại Đà Nẵng và TP.HCM đã có hàng trăm người nhập cảnh trái phép bằng đường bộ từ một nước đã có dịch COVID-19. Đây chính là yếu tố hoàn toàn khác việc hình thành làn sóng nhiễm COVID-19 lần thứ 1.

Từ các F0 từ nước ngoài không được kiểm soát vào Việt Nam đã làm phát sinh hàng loạt F1 dương tính và tạo ra bùng phát lây nhiễm tại Việt Nam từ ngày 22-7 đến nay.

2. Nhìn nhận tình hình lây nhiễm COVID-19 ở Việt Nam hiện nay thế nào?

Làn sóng nhiễm COVID-19 lần thứ 2 ở Việt Nam, với tâm điểm là Đà Nẵng là sự khác biệt rất lớn về quy mô và tính chất so với làn sóng 1:

- Chỉ sau 17 ngày số ca nhiễm mới phải được điều trị đã là 384, hơn gấp 2 lần đỉnh dịch lần thứ 1 là 178 ca (hình 12) mà vẫn chưa đạt đỉnh dịch lần 2.

- Đã có 11 người chết, trong khi trước ngày 22-7-2020 không có ca nào.

- Khi làn sóng 1 đạt đỉnh chỉ có 178 người được điều trị, tỉ lệ là 1,8 người/1 triệu dân, trong khi lần này, tại Đà Nẵng, tỉ lệ người điều trị là 150 người/1 triệu dân, gấp 15 lần ngưỡng an toàn dịch là 10 người điều trị/1 triệu dân.

Tuy nhiên, xét về tổng thể quốc gia và so sánh với trạng thái dịch ở các châu lục hiện nay, Việt Nam là nước có mức độ lây nhiễm rất thấp (Bảng 1).

Bảng 1: Tình hình dịch ở các châu lục và Việt Nam (tính đến 8-8-2020)

Số nhiễm/1 triệu dân Số đang điều trị/1 triệu dân Số chết/1 triệu dân
Châu Mỹ 10.000 3.800 410
Châu Âu 3.900 600 260
Châu Á 1.000 200 22
Châu Phi 785 226 17
Châu Đại Dương 555 222 8
Thế giới khi WHO công bố đại dịch (11-3-2020) ≈ 20 ≈ 10 ≈ 0,6
Việt Nam 9 4,5 0,12

Quảng Nam -

Đà Nẵng

132 124 4,16

Qua Bảng 1 ta thấy, mức độ lây nhiễm trong cộng đồng ở Việt Nam là 9 người/1 triệu dân, chưa bằng 1/2 mức lây nhiễm khi Tổ chức Y tế thế giới công bố đại dịch toàn cầu ngày 11-3-2020, còn so với các châu lục khác, từ 550 người/1 triệu dân đến 10.000/1 triệu dân thì quá nhỏ bé.

Với 4,5 người đang điều trị/1 triệu dân thì trạng thái lây nhiễm của Việt Nam chỉ bằng gần 1/2 trạng thái thế giới khi công bố dịch (10 người/1 triệu dân). Xét về tỉ lệ chết trên 1 triệu dân thì của Việt Nam là 0,12 người, rất thấp so với thế giới ngày 11-3-2020 (0,6 người chết/1 triệu dân).

Tóm lại, về tổng thể thì Việt Nam có mức độ lây nhiễm rất thấp so với thế giới và chưa phải là nước có dịch COVID-19.

Tuy nhiên khi Việt Nam bước vào làn sóng nhiễm COVID-19 lần thứ hai, từ 22-7-2020, tình hình đã rất khác và đã hình thành một tâm dịch của cả nước là Quảng Nam - Đà Nẵng.

Với 132 người đã nhiễm/1 triệu dân, 124 người đang được điều trị ở bệnh viện/1 triệu dân, 4,16 người chết/1 triệu dân thì Quảng Nam - Đà Nẵng đã trở thành vùng dịch thực sự.

Tỉ lệ người nhiễm/1 triệu dân đã gấp 6,5 lần tỉ lệ khi Tổ chức Y tế thế giới công bố dịch, tỉ lệ số người đang điều trị/1 triệu dân gấp 12 lần và tỉ lệ người chết/1 triệu dân gấp gần 7 lần (Bảng 1). Số người đang được điều trị ở Quảng Nam - Đà Nẵng chiếm 75% số người của cả nước (327/435), số người chết chiếm 100%.

Trong khi đất nước Việt Nam chưa có dịch COVID-19 thì Quảng Nam - Đà Nẵng đã là vùng dịch có mức độ phát triển tương đối cao. Đây là tình huống không xảy ra tại làn sóng nhiễm COVID-19 lần thứ 1 tại Việt Nam. Để dập dịch tại Quảng Nam - Đà Nẵng và tiếp tục giữ cho Việt Nam là nước không có dịch, thái độ và phương pháp phòng, chống dịch của chúng ta với Quảng Nam - Đà Nẵng và các địa phương khác phải được bổ sung so với giai đoạn làn sóng lây nhiễm lần thứ 1.

3. Chúng ta nên làm gì bây giờ?

Ngay từ tháng 1-2020, Đảng và Chính phủ đã có chỉ đạo kịp thời, quyết liệt, người dân và chính quyền các địa phương đã hưởng ứng mạnh mẽ. Đây là một bài học hết sức quý giá cần tiếp tục phát huy.

Từ kết quả phòng chống dịch ở Hong Kong, Israel và Campuchia, chúng ta thấy thời gian từ đỉnh làn sóng lây nhiễm lần thứ 1 tới lần thứ 2 là khoảng 3,5 đến 4 tháng, còn ở các nước chưa đạt đỉnh làn sóng thứ 2 là Nhật và Úc thì thời gian đã qua từ đỉnh làn sóng 1 cũng là 3,5 đến 4 tháng.

Hiện nay chúng ta đã qua hơn 4 tháng từ khi đạt đỉnh làn sóng 1 (30-3-2020). Như vậy, nếu chúng ta quyết liệt dập dịch ở Quảng Nam - Đà Nẵng và phòng dịch ở các địa phương khác thì khoảng 2 - 3 tuần nữa, có thể ngăn chặn được đáng kể lây nhiễm trong cộng đồng, làn sóng thứ 2 đạt đỉnh khoảng cuối tháng 8 đến đầu tháng 9-2020. Sau đó mức độ lây nhiễm sẽ giảm dần.

Từ bài học phòng dịch COVID-19 thành công của Việt Nam thời gian trước tháng 7-2020 và bài học phòng, chống dịch thành công và không thành công ở các nước, chúng ta hoàn toàn có thể dập dịch thành công ở Quảng Nam - Đà Nẵng và phòng dịch thành công ở các địa phương khác trên cơ sở các phương châm và giải pháp như sau:

1. Phương châm phòng, chống dịch theo yêu cầu của dịch tễ học (Phương châm 1)

1. Chủ động phòng dịch sớm.

2. Phát hiện kịp thời.

3. Cách ly triệt để.

4. Điều trị hiệu quả.

2. Phương châm phòng dịch theo yêu cầu tổ chức thực hiện: 5 tại chỗ (Phương châm 2)

1. Nhiệm vụ tại chỗ.

2. Chỉ huy tại chỗ.

3. Lực lượng con người tại chỗ.

4. Phương tiện tại chỗ.

5. Hậu cần tại chỗ.

3. Phương châm phòng dịch theo yêu cầu phát huy sức mạnh tổng hợp của xã hội Việt Nam (Phương châm 3)

1. Đảng lãnh đạo và chịu trách nhiệm cao nhất, Nhà nước chỉ đạo và chịu trách nhiệm trực tiếp trước Dân, trước Đảng.

2. Toàn hệ thống chính trị vào cuộc, phát huy truyền thống đoàn kết, nhân ái, kiên cường của người Việt Nam.

3. Mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi gia đình là một tổ chiến đấu, mỗi quận, huyện là một pháo đài vững chắc phòng chống dịch.

Theo đó, có thể xác định nhiệm vụ tại chỗ hiện nay là:

1. Dập dịch tại Quảng Nam - Đà Nẵng, cách ly Quảng Nam - Đà Nẵng với các địa phương khác trong 2 - 3 tuần tới.

2. Kiểm soát gắt gao nhất biên giới đường bộ của Việt Nam, cương quyết không cho xảy ra nhập cảnh trái phép trong 6 tháng tới.

3. Các địa phương về địa lý giáp ranh với Quảng Nam - Đà Nẵng là địa phương có nguy cơ dịch cao, triển khai các giải pháp phù hợp (Thừa Thiên Huế, Kon Tum, Quảng Ngãi).

4. Các tỉnh, thành phố khác, tùy mức độ giao lưu về con người với Quảng Nam - Đà Nẵng trong một tháng qua mà triển khai các biện pháp phòng dịch phù hợp theo 3 phương châm phòng dịch đã nêu trên.

5. Bộ Y tế là đầu mối đấu thầu tập trung toàn bộ trang thiết bị, vật tư y tế, thuốc men cho phòng dịch cả nước và dập dịch ở Quảng Nam - Đà Nẵng, các tỉnh, thành đặt hàng. Bộ Y tế cung ứng nhanh, đảm bảo chất lượng.

6. Ban Chỉ đạo phòng chống dịch quốc gia đưa ra dự báo diễn biến lây lan COVID-19 ở nước ta 3 ngày và 1 tuần 1 lần và xác định các biện pháp cần triển khai trong cả nước, ở các ngành và các địa phương.

 

 

Nguồn tin: https://tuoitre.vn/viet-nam-nen-lam-gi-voi-lan-song-thu-2-cua-dich-covid-19-2020081017100976.htm

KHUYẾN CÁO: 9 biện pháp phòng, chống COVID-19 trong tình hình mới

 (Chinhphu.vn) - Bộ Y tế vừa đưa ra khuyến cáo mới nhất phòng chống dịch bệnh COVID-19 trong tình hình hình mới và đề nghị người dân thực hiện đầy đủ các biện pháp phòng chống dịch bệnh dưới đây:

 

Bộ Y tế khuyến cáo phòng chống dịch bệnh COVID-19 trong tình hình mới

1. Thường xuyên rửa tay đúng cách bằng xà phòng dưới vòi nước sạch, hoặc bằng dung dịch sát khuẩn có cồn (ít nhất 60% cồn).

2. Đeo khẩu trang nơi công cộng, trên phương tiện giao thông công cộng và đến cơ sở y tế.

3. Tránh đưa tay lên mắt, mũi, miệng. Che miệng và mũi khi ho hoặc hắt hơi bằng khăn giấy, khăn vải, khuỷu tay áo.

4. Tăng cường vận động, rèn luyện thể lực, dinh dưỡng hợp lý xây dựng lối sống lành mạnh.

5. Vệ sinh thông thoáng nhà cửa, lau rửa các bề mặt hay tiếp xúc.

6. Nếu bạn có dấu hiệu sốt, ho, hắt hơi, và khó thở, hãy tự cách ly tại nhà, đeo khẩu trang và gọi cho cơ sở y tế gần nhất để được tư vấn, khám và điều trị.

8. Thực hiện khai báo y tế trực tuyến tại https://tokhaiyte.vn hoặc tải ứng dụng NCOVI từ địa chỉ https://ncovi.vn và thường xuyên cập nhật tình trạng sức khoẻ của bản thân.

9. Cài đặt ứng dụng Bluezone để được cảnh báo nguy cơ lây nhiễm COVID-19, giúp bảo vệ bản thân và gia đình: https://www.bluezone.gov.vn/.

 

 

 Nguồn tin: http://baochinhphu.vn/Suc-khoe/KHUYEN-CAO-9-bien-phap-phong-chong-COVID19-trong-tinh-hinh-moi/402382.vgp

Thứ năm, 23 Tháng 7 2020 03:36

5 nguyên tắc "vàng" phải nhớ khi cấp cứu

Written by

Bác sĩ BV Đại học Y Hà Nội: 5 nguyên tắc "vàng" phải nhớ khi cấp cứu người bị tai nạn giao thông

Bảo Lâm | 19/07/2020 14:34

 

Trong số những người bị tai nạn được cứu chữa thì gần một nửa không đúng kỹ thuật, bởi người tham gia cấp cứu tại hiện trường không hiểu biết đầy đủ về cách sơ cấp cứu ban đầu.

Chuẩn bị trước khi sơ cứu

ThS.BS Vũ Đình Hùng, Khoa Cấp cứu và Hồi sức tích cực, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội cho biết sơ cấp cứu người bị tai nạn giao thông đúng cách, đúng trình tự có thể cứu tính mạng nạn nhân trong thời điểm vừa xảy ra tai nạn. 

Nhưng nếu người sơ cứu không biết cách thì có thể làm tình trạng bệnh nhân nặng thêm, đôi khi ảnh hưởng đến sức khỏe và tính mạng của người tham gia cấp cứu.

Theo Ủy ban An toàn giao thông quốc gia, khi xảy ra TNGT, những nạn nhân được sơ cấp cứu tại chỗ rất ít, chỉ đạt tỷ lệ chưa đến 10%. Việc sơ cứu sai cách có thể làm tình trạng bệnh nhân nặng thêm, đôi khi ảnh hưởng đến sức khỏe và tính mạng của người tham gia cấp cứu.

Những chấn thương thường gặp do tai nạn giao thông như chấn thương sọ não, cột sống, ngực, bụng, vết thương động mạch, gãy xương và tổn thương mô mềm.

 

Sơ cứu TNGT đúng cách giúp người bị nạn ít nguy cơ tử vong hơn

Trước khi tiến hành cấp cứu cần phải quan sát, loại bỏ hoặc tránh các yếu tố nguy hiểm tại hiện trường như cháy, nổ, điện, nước, chất độc, hóa chất… Các yếu tố đó có thể làm nặng thêm tình trạng nạn nhân và gây nguy hiểm cho người sơ cứu nạn nhân.

Đồng thời phải có động tác cảnh báo hiện trường để tránh nguy cơ cho người xung quanh và phục vụ công tác điều tra sau này. Cần chú ý loại bỏ hoặc tránh ngay các mối nguy hiểm từ hiện trường (kể cả nạn nhân) như chất tiết, máu từ vết thương có thể là tác nhân lây nhiễm bệnh cho người sơ cứu (HIV, viêm gan). 

Tốt nhất có thể sử dụng găng tay. Nếu trong tình huống không có găng tay, tránh máu hoặc chất dịch lây nhiễm qua vết thương hở trên cơ thể người sơ cứu nạn nhân.

Trước khi sơ cứu nạn nhân, hãy gọi yêu cầu sự trợ giúp từ những người khác và hãy gọi cho Đơn vị cấp cứu 115 trước khi sơ cứu nạn nhân.

Thạc sĩ Hùng cho biết cần tránh di chuyển nạn nhân khi chưa đánh giá tổn thương, trừ khi có nguy cơ nguy hiểm từ hiện trường. Trường hợp bắt buộc phải di chuyển nạn nhân ra khỏi hiện trường, cần tránh các động tác làm xoắn vặn, gập cổ, gập người. 

Tốt nhất là có nhiều người hỗ trợ để giữ thẳng lưng, cổ trong quá trình di chuyển. Nếu nạn nhân có gãy xương chi gây biến dạng gập góc, cố gắng giữ nguyên tư thế biến dạng khi di chuyển.

Sơ cứu theo A, B, C, D, E

Sau khi gọi sự hỗ trợ, người sơ cứu nên tuần tự thực hiện các bước A, B, C, D, E. Nếu tiến hành đúng cách, đúng trình tự có thể cứu tính mạng cho nạn nhân trong thời điểm vừa xảy ra tai nạn.

+ Đường thở (A - Airway):

Đầu tiên cần nhận biết bệnh nhân có tỉnh không. Nếu bệnh nhân tỉnh, có thể nói được thì đường thở có thể ổn định. Nếu nạn nhân nôn, nghiêng nhẹ đầu sang một bên để chất nôn chảy ra ngoài, tránh sặc vào phổi nạn nhân. Nếu bệnh nhân không tỉnh, dùng khăn hoặc vải sạch lau đờm dãi, mở miệng kiểm tra dị vật, khai thông đường thở. Giữ nạn nhân ở tư thế cổ ưỡn, nâng hàm.

+ Hô hấp (B - Breathing):

Nếu nạn nhân hôn mê, cần kiểm tra xem nạn nhân còn thở không. Nạn nhân hôn mê, không thở hoặc thở ngáp tức là nạn nhân bị ngừng tuần hoàn. 

Ngay lập tức tiến hành hồi sinh tim phổi cho nạn nhân bằng cách đặt cườm hai tay vào 1/3 dưới xương ức của nạn nhân, ép tim nhanh và mạnh (tần số 100 - 120 lần mỗi phút, độ sâu mỗi lần ép tim 5cm).

Ép tim liên tục cho đến khi nhân viên cấp cứu ngoại viện tới hiện trường. Nếu có nhiều người sơ cứu tại hiện trường thì thay đổi người ép tim mỗi 2 - 3 phút.

 

Tuân thủ các bước sơ cứu

Nếu nạn nhân khó thở, hãy nới rộng quần áo, cho nạn nhân nằm đầu cao. Nếu có vết thương phì phò máu khí ở vùng ngực, hãy băng kín vết thương. Nếu vết thương ngực có dị vật, không tự ý rút dị vật, chỉ dùng băng sạch quấn quanh chân dị vật.

+ Tuần hoàn (C - Circulation):

Chảy máu là nguyên nhân chính gây nên tình trạng sốc, vết thương chảy máu cũng là chấn thương thường gặp nhất khi bị TNGT. Đối với vết thương chảy máu không có dị vật thì hãy dùng miếng vải sạch ép vào vị trí vết thương và băng chặt vết thương. 

Trường hợp vết thương có dị vật thì không được rút dị vật ra vì có thể làm cho máu chảy nhiều hơn. Tiến hành xử trí theo các bước sau: dùng tay ép chặt mép vết thương, chèn vải hoặc gạc quanh dị vật rồi băng chặt cố định. Lưu ý không băng trùm lên dị vật.

+ Thần kinh (D - Disability):

Gọi to xem nạn nhân có tỉnh không. Nếu nạn nhân bất tỉnh chú ý cố định cột sống cổ bằng cách để nạn nhân nằm ngửa, cố định cột sống cổ bằng nẹp hoặc vật cứng chèn hai bên vai để giữ cho cột sống cổ luôn thẳng. 

Nếu cần thiết phải di chuyển nạn nhân, cần có nhiều người đứng cùng bên để giữ thẳng trục lưng và cổ, một người giữ trục cột sống cổ thẳng bằng hai tay giữ hai bên cột sống cổ.

Trong hoàn cảnh tai nạn không có nhân viên y tế và hộp dụng cụ chăm sóc y tế, hãy tận dụng những vật phù hợp xung quanh để sơ cứu cho nạn nhân như miếng vải sạch, khăn sạch, hoặc quần áo làm dụng cụ băng/cầm máu. 

Dùng thanh gỗ, thanh kim loại dài, cứng làm nẹp. Dùng gối, túi nặng, bao cát làm vật cố định cột sống cổ bằng cách chèn hai bên cổ nạn nhân. Nên trang bị túi hoặc hộp dụng cụ sơ cứu trên xe ô tô.

Kiểm tra vùng đầu, nếu có vết thương hãy băng quanh đầu để cầm máu.

+ Bộc lộ (E - Expose):

Nới rộng quần áo kiểm tra toàn thân, chú ý các vị trí thấm máu ở quần áo. Kiểm tra các chi xem có điểm gãy xương không. Vị trí gãy xương là vị trí nhìn thấy chi biến dạng, sưng nề và nạn nhân đau nhiều. 

Chú ý dùng nẹp cứng để cố định chi bị gãy, cố gắng giữ nguyên tư thế của chi gãy, không tự ý kéo nắn vì xương gãy có thể làm tổn thương thêm mạch máu hoặc các mô mềm xung quanh.

Nguồn tin: Soha.vn

Thứ tư, 08 Tháng 7 2020 09:16

Bệnh bạch hầu và các biện pháp phòng chống

Written by

Bệnh bạch hầu và các biện pháp phòng chống

BỆNH BẠCH HẦU (Diphteria) ICD-10 A36: Diphtheria

(Bệnh bạch hầu thuộc nhóm B trong Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm)

1. Đặc điểm của bệnh

1.1. Định nghĩa ca bệnh: Bệnh bạch hầu là bệnh nhiễm khuẩn cấp tính có giả mạc ở tuyến hạnh nhân, hầu họng, thanh quản, mũi. Bệnh có thể xuất hiện ở da, các màng niêm mạc khác như kết mạc mắt hoặc bộ phận sinh dục. Đây là một bệnh vừa nhiễm trùng vừa nhiễm độc và các tổn thương nghiêm trọng của bệnh chủ yếu là do ngoại độc tố của vi khuẩn bạch hầu gây ra.

- Ca bệnh lâm sàng:

+ Viêm họng, mũi, thanh quản. Họng đỏ, nuốt đau. Da xanh, mệt, nổi hạch ở dưới hàm làm sưng tấy vùng cổ.

+ Khám thấy có giả mạc. Cần phân biệt tính chất của giả mạc bạch hầu với giả mạc mủ. Giả mạc bạch hầu thường trắng ngà hoặc mầu xám dính chặt vào xung quanh tổ chức viêm, nếu bóc ra sẽ bị chảy máu. Cho giả mạc vào cốc nước dù có khuấy mạnh cũng không tan. Còn giả mạc mủ thì sẽ bị hoà tan hoàn toàn trong cốc nước. Vùng niêm mạc xung quanh giả mạc bị xung huyết.

+ Bạch hầu thanh quản là thể bệnh nặng ở trẻ em. Biểu hiện lâm sàng bị nhiễm ngoại độc tố bạch hầu tại chỗ là giả mạc và biểu hiện toàn thân là nhiễm độc thần kinh, làm tê liệt thần kinh sọ não, thần kinh vận động ngoại biên và thần kinh cảm giác và/hoặc viêm cơ tim. Tỷ lệ tử vong khoảng 5% - 10%.

- Ca bệnh xác định: Phân lập vi khuẩn bạch hầu dương tính từ mẫu bệnh phẩm lâm sàng.

1.2. Chẩn đoán phân biệt với một số bệnh tương tự: Cần lưu ý phân biệt với bệnh viêm họng có giả mạc mủ khác hoặc viêm amydan có hốc mủ.

1.3. Xét nghiệm

- Loại mẫu bệnh phẩm: Ngoáy họng lấy chất dịch nhầy ở thành họng hoặc giả mạc tại chỗ viêm.

- Phương pháp xét nghiệm:

+ Thường chỉ dùng phương pháp soi kính hiển vi: Làm tiêu bản nhuộm Gram soi kính hiển vi; trực khuẩn bắt màu Gram (+), hai đầu to. Hoặc nhuộm Albert; trực khuẩn bắt màu xanh.

+ Có thể phân lập vi khuẩn bạch hầu trên môi trường đặc hiệu nhưng chậm có kết quả, ít khi dùng phương pháp tìm kháng thể trong máu bệnh nhân.

2. Tác nhân gây bệnh

- Tên tác nhân: Corynebacterium diphtheriae thuộc họ Corynebacteriaceae. Vi khuẩn bạch hầu có 3 týp là Gravis, Mitis và Intermedius.

- Hình thái: Hình thể vi khuẩn đa dạng, gram (+). Điển hình là trực khuẩn có một hoặc 2 đầu phình to nên còn gọi là trực khuẩn hình chuỳ, dài 2-6 µm, rộng 0,5-1µm. Không sinh nha bào, không di động.

- Khả năng tồn tại trong môi trường bên ngoài:

+ Vi khuẩn có sức đề kháng cao ở ngoài cơ thể và chịu được khô lạnh. Nếu được chất nhày bao quanh bảo vệ thì vi khuẩn có thể sống trên đồ vật vài ngày đến vài tuần; trên đồ vải có thể sống được 30 ngày; trong sữa, nước uống sống đến 20 ngày; trong tử thi sống được 2 tuần.

+ Vi khuẩn bạch hầu nhạy cảm với các yếu tố lý, hoá. Dưới ánh sáng mặt trời trực tiếp, vi khuẩn sẽ bị chết sau vài giờ, ánh sáng khuyếch tán sẽ bị diệt sau vài ngày. Ở nhiệt độ 580C vi khuẩn sống được 10 phút, ở phenol 1% và cồn 60 độ có thể sống được 1 phút. Chuột lang có cảm nhiễm cao đối với vi khuẩn bạch hầu.
+ Bản chất của ngoại độc tố bạch hầu là một protein có tính kháng nguyên đặc hiệu, độc tính cao, không chịu được nhiệt độ và focmol. Ngoại độc tố của các typ vi khuẩn bạch hầu đều giống nhau. Ngoại độc tố khi được xử lý bằng nhiệt độ và focmol sẽ mất độc lực, được gọi là giải độc tố (anatoxine) dùng làm vắc xin.
3. Đặc điểm dịch tễ học

- Bệnh bạch hầu lưu hành rộng rãi ở mọi nơi trên thế giới và đã gây nên các vụ dịch nghiêm trọng, nhất là ở trẻ em trong thời kỳ chưa có vắc xin dự phòng. Năm 1923, vắc xin giải độc tố bạch hầu ra đời và từ đó đến nay tính nghiêm trọng của bệnh dịch đã thay đổi trên toàn thế giới.

- Bệnh bạch hầu thường xuất hiện trong những tháng lạnh ở vùng ôn đới. Bệnh có tính mùa, thường tản phát, có thể phát triển thành dịch nhất là ở trẻ dưới 15 tuổi chưa được gây miễn dịch đầy đủ.

- Một sự kiện đáng lưu ý là do những biến động xã hội ở một số nước như Nga, Ucraina v.v... đã làm gián đoạn việc tiêm chủng vắc xin bạch hầu cho trẻ em trong những năm 80 của thế kỷ trước. Do đó, bệnh bạch hầu đã phát triển và bùng nổ thành dịch lớn ở những nước này trong những năm 90 của thế kỷ 20. Ví dụ năm 1994 ở Nga đã có hơn 39.000 người mắc bạch hầu với 1.100 người chết và ở Ucraina có hơn 3.000 người mắc. Tuổi mắc bệnh chủ yếu là trên 15 tuổi.
- Ở khu vực Tây Thái Bình Dương, hiện nay số mắc bệnh bạch hầu hàng năm đã giảm rõ rệt do hiệu quả của việc tiêm phòng vắc xin bạch hầu cho trẻ em được thực hiện có kết quả ở các nước trong khu vực. Những năm  đầu thập kỷ 80 của thế kỷ trước, hàng năm ở đây có trên 13.000 trường hợp bạch hầu, đến năm 1990 giảm xuống 1.130 trường hợp và năm 1994 còn 614 trường hợp.
- Ở Việt Nam, thời kỳ chưa thực hiện tiêm vắc xin bạch hầu trong Chương trình tiêm chủng mở rộng (TCMR) thì bệnh bạch hầu thường xảy ra và gây dịch ở hầu hết các tỉnh, đặc biệt là ở các thành phố có mật độ dân cư cao. Bệnh xuất hiện nhiều vào các tháng 8, 9, 10 trong năm. Do thực hiện tốt việc tiêm vắc xin bạch hầu nên tỷ lệ mắc bạch hầu ở Việt Nam đã giảm dần từ 3,95/100.000 dân năm 1985 xuống 0,14/100.000 dân năm 2000.

4. Nguồn truyền nhiễm.

- Ổ chứa: ổ chứa vi khuẩn bạch hầu là ở người bệnh và người lành mang vi khuẩn. Đây vừa là ổ chứa, vừa là nguồn truyền bệnh.

- Thời gian ủ bệnh: Từ 2 đến 5 ngày, có thể lâu hơn. 

- Thời kỳ lây truyền:  Thường không cố định. Người bệnh đào thải vi khuẩn từ thời kỳ khởi phát, có thể ngay từ cuối thời kỳ ủ bệnh. Thời kỳ lây truyền kéo dài khoảng 2 tuần hoặc ngắn hơn, ít khi trên 4 tuần. Người lành mang vi khuẩn bạch hầu có thể từ vài ngày đến 3, 4 tuần, rất hiếm trường hợp kéo dài tới 6 tháng. Điều trị kháng sinh có hiệu quả nhanh chóng sẽ chấm dứt sự lây truyền. Hiếm có trường hợp mang vi khuẩn mãn tính kéo dài trên 6 tháng.

5. Phương thức lây truyền : Bệnh bạch hầu được lây truyền qua đường hô hấp do tiếp xúc với người bệnh hoặc người lành mang vi khuẩn bạch hầu. Bệnh còn có thể lây do tiếp xúc với những đồ vật có dính chất bài tiết của người bị nhiễm vi khuẩn bạch hầu. Sữa tươi cũng có thể là phương tiện lây truyền bệnh bạch hầu.

6. Tính cảm nhiễm và miễn dịch:

- Kháng thể miễn dịch của mẹ truyền sang con có tác dụng miễn dịch bảo vệ và thường sẽ hết tác dụng trước 6 tháng tuổi. Mọi lứa tuổi đều có thể bị mắc bệnh nếu chưa có miễn dịch đặc hiệu. Bệnh nhân mắc bạch hầu sau khi khỏi bệnh sẽ không bị mắc lại vì cơ thể được miễn dịch lâu dài.

- Đối với các thể nhiễm khuẩn ẩn tính cũng tạo được miễn dịch. Tính miễn dịch của kháng độc tố, kể cả miễn dịch được tạo thành sau khi tiêm vắc xin giải độc tố (toxoid) sẽ bảo vệ được cơ thể đối với bệnh bạch hầu, nhưng không ngăn ngừa được sự nhiễm khuẩn tại chỗ vùng mũi họng.

- Để đánh giá mức độ cảm thụ của bệnh, kể cả đánh giá hiệu quả tiêm vắc xin bạch hầu, người ta làm phản ứng Shick. Nếu phản ứng Shick (+), có nghĩa là cơ thể không có kháng thể bạch hầu và cần phải tiêm vắc xin. Trường hợp phản ứng Shick (-), có nghĩa là trong cơ thể đã có kháng thể trung hoà độc tố và không cần tiêm vắc xin.

7. Các biện pháp phòng chống dịch

7.1. Biện pháp dự phòng

- Tuyên truyền giáo dục sức khoẻ: Trong công tác tuyên truyền giáo dục sức khoẻ thường kỳ cần cung cấp những thông tin cần thiết về bệnh bạch hầu cho nhân dân, nhất là cho các bà mẹ, thầy cô giáo biết để họ phát hiện sớm bệnh, cách ly, phòng bệnh và cộng tác với cán bộ y tế cho con đi tiêm vắc-xin bạch hầu đầy đủ.

- Vệ sinh phòng bệnh:

+ Nhà ở, nhà trẻ, lớp học phải thông thoáng, sạch sẽ và có đủ ánh sáng.
+ Tại nơi có ổ dịch bạch hầu cũ cần tăng cường giám sát, phát hiện các trường hợp viêm họng giả mạc. Nếu có điều kiện thì ngoáy họng bệnh nhân cũ và những người lân cận để xét nghiệm tìm người lành mang vi khuẩn bạch hầu.

+ Tổ chức tiêm vắc xin bạch hầu đầy đủ theo Chương trình tiêm chủng mở rộng. Nếu có điều kiện thì khoảng 5 năm tiến hành đánh giá tiêm chủng một lần và/ hoặc thực hiện phản ứng Shick để đánh giá tình trạng miễn dịch bạch hầu trong quần thể trẻ em.

7.2. Biện pháp chống dịch

- Tổ chức:

+ Thành lập Ban chống dịch do lãnh đạo chính quyền làm trưởng ban, lãnh đạo y tế địa phương làm phó ban thường trực và các thành viên khác có liên quan như: Y tế, Giáo dục, Công an, Hội Phụ nữ, Hội Chữ thập đỏ v.v...

+ Các thành viên trong Ban chống dịch được phân công nhiệm vụ để chỉ đạo và huy động cộng đồng thực hiện tốt công tác chống dịch.

+ Đối với vụ dịch nhỏ cần giành một số giường bệnh trong một khu riêng ở khoa lây bệnh viện để cách ly và điều trị bệnh nhân. Nếu có dịch lớn thì có thể thành lập bệnh xá dã chiến trong cộng đồng.

- Chuyên môn:

+ Bạch hầu là một bệnh bắt buộc phải khai báo.

+ Tất cả bệnh nhân viêm họng giả mạc nghi bạch hầu phải được vào viện để cách ly đường hô hấp nghiêm ngặt cho đến khi có kết quả xét nghiệm vi khuẩn hai lần (-). Mỗi mẫu bệnh phẩm được lấy cách nhau 24 giờ và không quá 24 giờ sau khi điều trị kháng sinh. Nếu không có điều kiện làm xét nghiệm thì phải cách ly bệnh nhân sau 14 ngày điều trị kháng sinh.

+ Quản lý người lành mang vi khuẩn, người tiếp xúc: Những người tiếp xúc mật thiết với bệnh nhân phải được xét nghiệm vi khuẩn và theo dõi trong vòng 7 ngày. Tiêm 1 liều đơn Penicillin hoặc uống Erythromycin từ 7-10 ngày cho những người đã bị phơi nhiễm với bạch hầu, bất kể tình trạng miễn dịch của họ như thế nào. Nếu xét nghiệm vi khuẩn (+) thì họ phải được điều trị kháng sinh và tạm nghỉ việc tại các trường học hoặc cơ sở chế biến thực phẩm cho đến khi có kết quả xét nghiệm vi khuẩn (-).

+ Những người tiếp xúc đã được gây miễn dịch trước đây thì nên tiêm nhắc lại một liều giải độc tố bạch hầu.

+ Xử lý môi trường: Phải sát trùng tẩy uế đồng thời và sát trùng tẩy uế lần cuối tất cả các đồ vật có liên quan tới bệnh nhân. Tẩy uế và diệt khuẩn phòng bệnh nhân hàng ngày bằng cresyl, chloramin B; bát đĩa, đũa, chăn màn, quần áo… phải được luộc sôi; sách, vở, đồ chơi v.v… phải được phơi nắng.

7.3. Nguyên tắc điều trị

- Điều trị chống ngoại độc tố bạch hầu: Tuỳ theo tình trạng bệnh mà chỉ định tiêm huyết thanh kháng độc tố bạch hầu từ 20.000 đơn vị đến 100.000 đơn vị. Cần thử phản ứng huyết thanh kháng độc trước khi tiêm.

- Chống nhiễm khuẩn:  Tiêm penicillin G liều 25.000 - 50.000 đơn vị/kg/ngày cho trẻ em và 1,2 triệu đơn vị cho người lớn, chia làm 2 lần/ngày. Nếu bệnh nhân dị ứng với penicillin thì thay bằng erythromycin với liều 40-50 mg/kg/ngày, liều tối đa 2 gam/ngày trong 7 ngày liền.

- Điều trị dự phòng cho người lành mang vi khuẩn: Tiêm một liều đơn penicillin G benzathin 600.000 đơn vị cho trẻ dưới 6 tuổi và 1,2 triệu đơn vị cho trẻ từ 6 tuổi trở lên hoặc uống erythromycin với liều 40 mg/kg/ngày cho trẻ em và 1gam/ngày cho người lớn trong 7-10 ngày.

7.4. Kiểm dịch y tế biên giới: Không có quy định.

Cục Y tế dự phòng, Bộ Y tế

Chóng mặt - phải dùng thuốc theo căn nguyên gây bệnh

BS. Nguyễn Trâm Anh -

Suckhoedoisong.vn - Chóng mặt là hiện tượng xảy ra khá phổ biến. Khi có biểu hiện này, người bệnh cần được đi khám và tìm ra căn nguyên gây chóng mặt, không được chủ quan vì có thể dẫn đến những tai nạn nguy hiểm trong sinh hoạt hàng ngày.

Tuyệt đối không tự ý dùng thuốc vì bệnh không được chữa trị do chưa tìm đúng căn nguyên và có thể gặp phải nhiều tác dụng không mong muốn của thuốc.

Chóng mặt là khi người bệnh thấy mọi vật xung quanh quay cuồng, có cảm giác mất thăng bằng, đi đứng không vững, bồng bềnh, hụt bước đi, lâng lâng mất trọng lượng, nôn nao, khó chịu trong người...

Các thuốc điều trị chứng chóng mặt

Chóng mặt do nhiều nguyên nhân khác nhau với nguồn gốc từ ngoại biên hoặc trung ương. Chóng mặt do ngoại biên có thể xảy ra từ tư thế thay đổi đột ngột, từng bị chấn thương đầu, viêm và sưng tai trong, viêm dây thần kinh tiền đình, bệnh Ménière... Chóng mặt do trung ương có thể do bệnh đau đầu Migraine, đa xơ cứng hệ thần kinh trung ương não và tủy sống, u dây thần kinh thính giác, u não tấn công tiểu não, tắc nghẽn mạch máu não, dùng một số thuốc điều trị ảnh hưởng... Việc sử dụng thuốc điều trị chóng mặt phải theo căn nguyên mới có hiệu quả. Phần lớn các thuốc điều trị đều là thuốc bác sĩ kê đơn.

 

Chóng mặt là triệu chứng của nhiều bệnh lý gây nên.

Thuốc kháng sinh và kháng viêm: Nhóm thuốc này được sử dụng để điều trị chóng mặt do nhiễm vi khuẩn gây viêm mê đạo, viêm dây thần kinh tiền đình của tai... Kháng sinh thường dùng là cefuroxim, clarithromycin, amoxicillin... Kháng viêm thường dùng là loại corticosteroid như prednisolon, dexamethason, betamethason, clobetasol... Liều lượng sử dụng phải tuân theo chỉ định thuốc kê đơn của bác sĩ. Lưu ý, các thuốc kháng viêm corticosteroid khi sử dụng trong một thời gian dài có thể gây viêm loét dạ dày - tá tràng và có nguy cơ ảnh hưởng đến thận, tim mạch... Vì vậy, người bệnh tuyệt đối không lạm dụng để tránh các nguy cơ nói trên.

Thuốc chống dị ứng: Thuốc nhóm này là thuốc kháng histamin H1. Thực tế thuốc thường được sử dụng trong điều trị chóng mặt do có tác dụng điều chỉnh hoạt động của phần tai trong, giúp kiểm soát và duy trì trạng thái thăng bằng của cơ thể. Các loại thuốc thường dùng là diphenhydramin, betahistin, meclizin... Lưu ý, nhóm thuốc kháng histamin H1 có tác dụng phụ gây buồn ngủ, do đó không được sử dụng khi đang lái tàu xe, vận hành máy móc; thận trọng khi sử dụng cho phụ nữ có thai và đang cho con bú...

Thuốc kháng tiết cholin: Đây là nhóm thuốc thường được sử dụng trong điều trị các trường hợp chóng mặt và buồn nôn do bị say sóng, say tàu xe... Thuốc phổ biến được dùng là scopolamin. Không được dùng thuốc này cho những người bị bệnh tăng nhãn áp, phụ nữ có thai trong 3 tháng đầu, trẻ em dưới 8 tuổi...

Thuốc đối kháng calci có chọn lọc: Nhóm thuốc này có tác dụng giãn mạch ngoại biên, tăng cường tuần hoàn máu ở tai trong. Ngoài tác dụng đối kháng calci có chọn lọc, chúng còn có tác dụng giống nhóm thuốc kháng histamin nên thường được sử dụng để điều trị chóng mặt do say sóng, say tàu xe, bệnh đau nửa đầu... rất có hiệu quả. Thuốc thường sử dụng là cinnarizin, flunarizin... Nhóm thuốc này cũng có tác dụng phụ gây buồn ngủ, vì vậy, không được sử dụng khi đang lái tàu xe, vận hành máy móc.

Thuốc tăng cường tuần hoàn não: Sử dụng nhóm thuốc này có tác dụng giúp tăng cường khả năng vận chuyển máu lên não, kích hoạt não bộ thực hiện tốt chức năng dẫn truyền thần kinh; làm giảm chứng chóng mặt, ù tai... Các thuốc thường sử dụng là piracetam, vinpocetin... Khi dùng các thuốc này, người bệnh có thể thấy bứt rứt, lo âu, rối loạn giấc ngủ... Nếu có bất kỳ biểu hiện nào khác thường khi dùng thuốc tăng cường tuần hoàn não, người bệnh nên thông báo kịp thời cho bác sĩ để được điều chỉnh thuốc.

Thuốc chống lo âu, an thần kinh: Thuốc này thuộc nhóm benzodiazepin. Chúng cũng thường được sử dụng để điều trị chứng chóng mặt, ù tai, điều chỉnh và phục hồi các tổn thương ở tiền đình...; điều trị chứng chóng mặt do bệnh Menière, viêm dây thần kinh tiền đình hay do các nguyên nhân về tâm lý. Thuốc thường dùng là diazepam, clonazepam, lorazepam, alprazolam... Nhóm thuốc này có tính an thần nên không được sử dụng khi đang vận hành máy móc, lái xe; khi dùng liều cao trong thời gian dài sẽ gây ra tình trạng nghiện hay lệ thuộc thuốc.

Thuốc lợi tiểu: Được sử dụng để điều trị những trường hợp chóng mặt gây ra do bệnh Ménière. Chúng có tác dụng giúp thoát dịch bị phù ứ đọng ở phần tai trong nên có thể làm giảm triệu chứng. Các thuốc thường được sử dụng là furosemid, hydrochlorothiazid... Khi dùng nhóm thuốc này, người bệnh có thể gặp tác dụng phụ hạ huyết áp thế đứng, cần thông báo ngay cho bác sĩ để được xử trí thích hợp.

Lời khuyên của thầy thuốc

Do có nhiều nguyên nhân gây chóng mặt nên khi có triệu chứng này, người bệnh cần đi khám để xác định bệnh và có chỉ định điều trị phù hợp. Không được tự ý dùng thuốc hay dùng theo sự mách bảo của người khác. Ngoài việc điều trị bằng thuốc, cần có chế độ sinh hoạt nghỉ ngơi hợp lý; không nên sử dụng các chất kích thích như rượu bia, cà phê, thuốc lá...; thường xuyên tập thể dục để nâng cao thể trạng sức khỏe.

BS. Nguyễn Trâm Anh

Nguồn tin: Suckhoedoisong.vn